Triển lãm chủ đề: Sử Việt – Nét hùng ca vàng son
Ngày 14.4.2025, trường THPT Nguyễn Thái Bình phối hợp cùng Ngành quan hệ công chúng trường Đại học Công nghệ Tp.Hồ Chí Minh (HUTECH) tổ chức triển lãm chủ đề: Sử Việt – Nét hùng ca vàng son. Nhằm hướng tới kỉ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30.4.1975 - 30.4.2025). Triển lãm giới thiệu tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam, từ khi dựng nước đến thời đại Hồ Chí Minh.
Phát biểu tại buổi lễ, cô Đoàn Thị Thu Hoài - Bí thư Chi bộ, Hiệu trưởng Nhà trường nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giáo dục lịch sử, văn hoá truyền thống của dân tộc cho học sinh. Đồng thời, Cô cũng mong muốn thông qua buổi triển lãm học sinh sẽ thêm yêu quý, trân trọng và tự hào về lịch sử, văn hoá truyền thống của dân tộc và có thêm hứng thú trong học tập.
Thầy Lê Hữu Nghĩa đại diện tổ Lịch sử - Giáo dục địa phương sơ lược lại lịch sử Việt Nam:
Hôm nay, chúng ta ở đây để “ôn cố nhi tri tân”, nghĩa là ôn cũ để mà biết mới.
Nước Việt Nam nằm ở Đông Nam lục địa châu Á, bắc giáp Trung Quốc, tây giáp Lào và Campuchia, đông và nam giáp Biển Đông. Diện tích đất liền hơn 330.000 km2 và khoảng 1 triệu km2 diện tích Biển Đông.
Phần đất liền nước ta có hình dáng đặc biệt: phình ra ở hai đầu (Bắc Bộ và Nam Bộ), ở giữa thu hẹp lại và kéo dài, nên được ví như một gánh thóc. Địa thế nước ta tương đối phức tạp: ¾ diện tích là núi đồi, nhiều sông ngòi. Hai sông lớn nhất là sông Hồng và sông Cửu Long.
Việt Nam nằm ở vùng nhiệt đới và một phần xích đạo, nên khí hậu thuận lợi cho sự phát triển của cây cối. Bên cạnh đó, cũng có nhiều thiên tai, đặc biệt là bão, áp thấp nhiệt đới và gió mùa đông bắc.
Về dân tộc: đất nước ta có 54 dân tộc cùng sinh sống. Mỗi dân tộc có đặc điểm riêng nhưng đều gắn bó trong vận mệnh chung, trong lịch sử dựng nước, giữ nước và tâm lí nguồn cội: “khác giống nhưng chung một giàn”.
Trên đất nước thân yêu của chúng ta, cách ngày nay khoảng 20 vạn năm đã có người tối cổ sinh sống. Bằng chứng là các nhà khoa học đã tìm thấy dấu tích ở các hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai (Lạng Sơn), ở núi Đọ, núi Nuông (Thanh Hoá), Xuân Lộc (Đồng Nai), An Lộc (Bình Phước). Trải qua quá trình sinh sống, lao động sản xuất đã hình thành nên các cộng đồng dân cư với nhiều nền văn hoá, tiêu biểu như: Hoà Bình, Bắc Sơn (thời đại đồ đá), Đồng Đậu, Gò Mun (thời đại đồ đồng), Sa Huỳnh, Đông Sơn (thời đại đồ sắt).v.v. và kết quả là nhà nước Văn Lang ra đời, tiếp sau đó là Âu Lạc.
Với sự ra đời của nhà nước Văn Lang, đã đánh dấu một bước chuyển biến cơ bản trong lịch sử xã hội Việt Nam, đó là thời đại dựng nước. Nhưng cũng từ đây, dân tộc ta luôn phải đấu tranh chống lại sự xâm lược, đô hộ của các thế lực ngoại bang.
Năm 179 TCN, sau nhiều lần bị thất bại về mặt quân sự, cha con Triệu Đà – Trọng Thuỷ đã dùng mưu “nam nhân kế” lừa được cha con An Dương Vương – Mị Châu, kể từ đây, dân tộc ta rơi vào thời kì Bắc thuộc kéo dài 1.117 năm. Cũng từ đây, nhân dân ta liên tục vùng lên đấu tranh để giành lại độc lập.
Vừa đấu tranh vũ trang vừa đấu tranh trên mặt trận văn hoá tư tưởng để bảo tồn và phát triển những tinh hoa giá trị của nền văn hoá cổ truyền.
Thời Bắc thuộc (179 TCN – 938): các cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (năm 40), Bà Triệu (năm 248), Lý Bí (năm 542), Mai Thúc Loan (722), Phùng Hưng (cuối tk VIII), Khúc Thừa Dụ (905), Dương Đình Nghệ (931) và hàng trăm cuộc khởi nghĩa khác đã tiếp thêm sức mạnh để nhân dân ta tiếp tục đấu tranh thắng lợi và mở ra thời kì xây dựng và bảo vệ quốc gia, độc lập, thống nhất, với sự kiện năm 938 gắn với tên tuổi của Ngô Quyền.
Thời phong kiến độc lập tự chủ kéo dài từ thế kỉ X đến giữa thế kỉ XX: trải qua các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ, Hậu Lê, Mạc, Tây Sơn, Nguyễn.
Tuy nhiên, trong thời độc lập đất nước ta vẫn phải thường xuyên đương đầu với sự xâm lược của ngoại bang:
- Chống Tống lần thứ nhất năm 981. Chống Tống lần thứ hai năm 1075 – 1077.
- Chống Mông – Nguyên: lần 1 năm 1258, lần 2 năm 1285, lần 3 năm 1287 – 1288.
- Chống Minh năm 1407, nhưng lần này chúng ta thất bại, đất nước rơi vào thời kì Bắc thuộc lần 2. Vì sao lại thất bại? Nguyễn Trãi lí giải trong Bình Ngô đại cáo:
“Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh.”
Nhà Minh đô hộ dân ta hà khắc, chúng cướp sạch, đốt sạch, phá sạch những thành tựu mà trước đó nhân dân ta xây dựng nên. Năm 1418 Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, được nhiều người tài giỏi giúp sức như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn.v.v. đến năm 1427 đã đuổi được quân Minh, giành lại độc lập.
- Chống Xiêm năm 1785.
- Chống Thanh năm 1789.
- Chống Pháp năm 1858, lần này chúng ta thua, vì sao? So sánh tương quan lực lượng và thời thế thay đổi. Nhân dân ta với truyền thống chống giặc ngoại xâm kiên cường đã tổ chức đánh Pháp ngay từ những ngày đầu chúng xâm lược nhưng các cuộc khởi nghĩa theo ý thức hệ phong kiến đều thất bại.
Sang đầu thế kỉ XX, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản, tiêu biểu như cụ Phan Bội Châu, cụ Phan Châu Trinh.v.v. nhưng đều không thành công. Đất nước vẫn chìm trong vòng nô lệ của thực dân Pháp.
Trong bối cảnh ấy, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc xuất hiện và Người đã tìm thấy con đường cứu nước cho dân tộc ta, đó là con đường cách mạng vô sản.
Năm 1930, Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, với đường lối đúng đắn, sáng tạo, khoa học. Đã lãnh đạo cách mạng nước ta giành những thắng lợi to lớn:
- Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công. Ngày 2.9.1945, Người đọc bản Tuyên ngôn độc lập – khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa nước ta từ một nước thuộc địa trở thành một nước độc lập, thống nhất và tự do. Lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình.
- Ngay sau Cách mạng tháng Tám, các thế lực đế quốc, thực dân: quân Anh, quân Trung Hoa Dân quốc, quân Nhật, quân Pháp và đám tay sai cấu kết với nhau để chống phá cách mạng nước ta; cùng với đó là hậu quả của chế độ thực dân, phát xít để lại nên đất nước ta lúc này đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng bước đưa cách mạng nước ta thoát khỏi hiểm nguy và giành thắng lợi vang dội trong trận Điện Biên Phủ năm 1954. Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đúng như vị tướng Pháp Christian de Castries - người bị bộ đội ta bắt sống ở trận Điện Biên Phủ - đã thừa nhận: người ta có thể đánh bại một quân đội, chứ không thể đánh bại được một dân tộc.
- Thất bại ở Điện Biên Phủ, buộc Pháp phải kí Hiệp định Geneve về chấm dứt chiến tranh và lập lại hoà bình ở Đông Dương. Nhưng ngay sau đó, ở miền Nam, Mĩ thay thế Pháp, dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, phá hoại Hiệp định Geneve, thực hiện chia cắt Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mĩ ở Đông Nam Á.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền Nam đã kết hợp các hình thức đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao giành nhiều thắng lợi. Sau nhiều thất bại lớn, buộc Mĩ phải kí Hiệp định Paris năm 1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Hiệp định Paris tạo đà để nhân dân ta làm nên chiến thắng lịch sử mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
- Từ đây, cả nước ta tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng 12.1986) đã mở đầu công cuộc Đổi mới, tạo đà để đất nước ngày càng phát triển.
Sự nghiệp dựng nước của dân tộc ta bao gồm cuộc đấu tranh thiên nhiên và đấu tranh xã hội. Trong quá trình xây dựng đất nước, dân tộc ta đã có lúc đạt được những thành tựu to lớn ngang tầm với thời đại, tạo nên những kỷ nguyên văn minh trong lịch sử dân tộc. Đó là những thời kì sức sống của cả dân tộc được phát huy cao độ, phản ánh tài năng sáng tạo của con người Việt Nam.
Một đặc điểm nổi bật của lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của một dân tộc chống ngoại xâm triền miên và chiến thắng ngoại xâm oanh liệt, phải luôn luôn ở tư thế vừa dựng nước vừa giữ nước. Việt Nam là một nước giàu tài nguyên với nhiều đặc sản vùng nhiệt đới, lại có vị trí chiến lược quan trọng ở Đông Nam Á và châu Á – Thái Bình Dương. Nên, rất nhiều kẻ xâm lược đều coi Việt Nam là một mục tiêu chủ yếu.
Kể từ cuộc kháng chiến chống quân Tần (thời Văn Lang – Âu Lạc) đến cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước thắng lợi (thời đại Hồ Chí Minh), trong vòng 22 thế kỉ, dân tộc ta đã tiến hành 15 cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, trong đó có 12 cuộc đã giành được thắng lợi hiển hách.
Nhưng chỉ nhìn vào số lượng thì chưa đủ thấy tính chất vĩ đại của sự nghiệp chống ngoại xâm của dân tộc ta. Điều quan trọng hơn là phải xét xem những kẻ thù đó như thế nào? Trong hầu hết các trường hợp, nước xâm lược lớn hơn ta nhiều lần.
Đó là những đế chế mạnh thời cổ - trung đại ở phía Bắc, là đế quốc Mông - Nguyên một thời làm mưa làm gió từ Á sang Âu.
Đó là những cường quốc đế quốc chủ nghĩa thời cận, hiện đại ở châu Âu, châu Á, châu Mĩ: Pháp, Nhật, Mĩ.
Trong những điều kiện chiến tranh vô cùng ác liệt, nhân dân ta chịu tổn thất lớn lao, nhưng cuối cùng dân tộc ta vẫn giành chiến thắng. Thiên anh hùng ca chống ngoại xâm trong mấy nghìn năm chứng minh hùng hồn sức sống kì diệu của dân tộc Việt Nam.
Trong quá trình dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã đúc kết nên những truyền thống quý báu:
Một là, truyền thống lao động bền bỉ, thông minh, sáng tạo.
Hai là, truyền thống yêu nước, ý chí độc lập, tự cường.
Ba là, truyền thống đoàn kết, thống nhất, với sức sống quật cường.
Bốn là, một nền văn hiến/một nền đạo lí Việt Nam. Từ đó đã hun đúc nên lí tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Ngày nay, đất nước Việt Nam đang trong thời kì mở cửa, hội nhập sâu rộng với thế giới. Để hoà nhập nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hoá truyền thống thì đòi hỏi mỗi người Việt Nam phải có sự hiểu biết đầy đủ hơn, mới mẻ hơn về toàn bộ lịch sử dân tộc, phải biết lấy xưa phục vụ nay.
Một dân tộc - quốc gia này khác với một dân tộc - quốc gia khác, chính là nhờ yếu tố lịch sử, văn hoá và truyền thống, không còn các yếu tố này thì không còn là quốc gia - dân tộc.
Do vậy, mỗi chúng ta phải biết bảo vệ, giữ gìn và phát huy truyền thống dân tộc.
Lịch sử dân tộc không phải chỉ có các trận đánh, các chiến công mà là tất cả thành tựu về vật chất và tinh thần do ông cha ta sáng tạo nên, là tài nguyên thiên nhiên của đất nước.v.v.
Một số hình ảnh tiêu biểu trong buổi triển lãm:
Cô Đoàn Thị Thu Hoài - Bí thư Chi bộ, Hiệu trưởng nhà trường